Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

25/04/2025
Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

Bà Lương Bạch Vân, một trong những nhân vật tiêu biểu của cộng đồng Việt kiều tại Pháp, không chỉ là một nhà khoa học xuất sắc mà còn là cầu nối giữa kiều bào và quê hương. Sau khi tham gia kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước, bà đã dành nhiều năm để vận động hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho Việt Nam, giúp sản xuất các sản phẩm thiết yếu như vòng tránh thai, nhang muỗi và bồn nước. Bà cũng đóng góp quan trọng cho ngành năng lượng tái tạo tại TP HCM.

Hơn 20 năm sau khi nghỉ hưu, bà vẫn tiếp tục công việc kết nối giữa kiều bào và quê hương, giúp hàn gắn những vết thương lịch sử bằng sự tin tưởng và đối thoại. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, bà được vinh danh tại TP HCM vì những đóng góp của mình cho thành phố.

Trong một buổi phỏng vấn, bà chia sẻ về lý do trở về quê hương, những năm tháng đầu tiên xây dựng nền khoa học còn non trẻ và những thông điệp mà bà muốn gửi gắm đến thế hệ trẻ hiện nay.

Bà Lương Bạch Vân

Năm nay đánh dấu 50 năm đất nước thống nhất, cũng gần tròn nửa thế kỷ kể từ khi bà rời Pháp trở về quê hương. Trong dịp đặc biệt này, ký ức sâu sắc mà bà nhớ đến sẽ gồm những gì?

– Tôi vẫn nhớ như in ngày mình lên máy bay sang Pháp vào năm 1960, khi đó tôi mới 14 tuổi. Sau 15 năm sống xa quê, vào năm 1975, khi đất nước thống nhất, tôi và những người Việt ở Pháp đã hồi hộp chờ đợi từng tin tức từ quê nhà.

Trong thời gian diễn ra Hội nghị Paris về Việt Nam, chúng tôi thường xuyên theo dõi tình hình quê hương qua một chiếc đài sóng ngắn. Khi nghe tin thắng lợi, mọi người đều vỡ òa trong niềm vui. Tôi chỉ nghĩ đến một điều: “Mình sắp được trở về, những gì đã chuẩn bị bấy lâu nay sắp đến lúc được thực hiện”.

Vừa nhận tin đất nước thống nhất, bà đã lập tức nghĩ đến việc được về nước. Điều gì khiến bà có tâm niệm ấy?

– Có lẽ do hoàn cảnh gia đình. Cha tôi là một người hoạt động cách mạng và đã hy sinh khi tôi còn nhỏ. Mẹ tôi đã phải đưa tôi sang Pháp để tìm kiếm cơ hội. Tôi luôn cảm thấy mình có trách nhiệm phải trở về để đóng góp cho quê hương.

Hành trình của bà ở Pháp bắt đầu thế nào, thưa bà?

– Ngay từ khi sang Pháp, tôi đã không nghĩ mình sẽ ở lại lâu. Tôi luôn mang trong mình một ước mơ: phải học tập thật tốt để trở về phục vụ đất nước. Sau 15 ngày, mẹ tôi muốn tôi nhập quốc tịch Pháp nhưng tôi đã từ chối. Tôi chỉ muốn trở về Việt Nam.

Ban đầu, tôi giúp mẹ trong công việc gia đình, nhưng sau đó tôi đã xin mẹ cho tôi đi học. Mặc dù không thông thạo tiếng Pháp, tôi vẫn quyết tâm học tập và làm việc. Tôi đã phải làm việc chăm chỉ để có thể theo kịp chương trình học.

Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

– Vậy với quyết định không nhập tịch Pháp, bà gặp những bất lợi nào?

– Trong suốt 5 năm sống với mẹ, mỗi mùa hè gia đình tôi đều đi du lịch, nhưng tôi không thể đi cùng vì không có quốc tịch. Tôi đã phải ở lại một mình trong khách sạn trong khi mọi người đi chơi. Mẹ tôi rất lo lắng cho tôi, nhưng tôi vẫn kiên quyết: “Con muốn về Việt Nam”.

Đến năm 1973, khi tôi vừa hoàn thành luận án tiến sĩ, tôi đã tìm kiếm cơ hội việc làm tại một trung tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, họ yêu cầu tôi phải nhập quốc tịch Pháp, và tôi đã từ chối. Tôi không thể chấp nhận điều đó.

Từ một cô bé 14 tuổi không thông thạo tiếng Pháp, bà đã chinh phục được học vị tiến sĩ. Bà đã làm điều đó như thế nào?

– Tôi đã phải trải qua nhiều khó khăn trong quá trình học tập. Tôi không được đi học sớm và phải sống nhờ nhà dì, cậu. Khi về với bà nội, tôi mới được đi học tại một trường công miễn phí. Tôi đã thi đậu vào trường Lê Văn Duyệt, một trong những trường tốt nhất miền Nam lúc bấy giờ.

Bà nội luôn dặn tôi: “Học sẽ giúp con vượt qua xuất thân của mình”. Tôi đã ghi nhớ điều đó và luôn cố gắng học tập chăm chỉ.

Khi chuẩn bị sang Pháp, cô giáo toán đã tặng tôi hai câu thơ: “Khi đi, đi với tay không. Khi về, về với thành công mọi bề”. Đó là động lực lớn để tôi phấn đấu.

Qua Pháp, tôi đã phải vật lộn với việc học tiếng và làm quen với chương trình mới. Tôi đã phải làm việc chăm chỉ để có thể theo kịp các bạn cùng lớp.

May mắn là việc học của tôi diễn ra thuận lợi. Tôi đã hoàn thành chương trình cử nhân, cao học và sau đó là tiến sĩ.

Bà trở về Việt Nam năm 1978. Có điều gì đặc biệt đằng sau thời điểm này?

– Nếu có cơ hội, tôi đã trở về sớm hơn. Chồng tôi cũng có hoàn cảnh tương tự, và chúng tôi đã bàn nhau về việc trở về quê hương. Khi Hiệp định Paris được ký, tôi đã hoàn thành tiến sĩ và nghĩ rằng đã đến lúc trở về.

Tuy nhiên, việc trở về không đơn giản. Đến năm 1978, chúng tôi mới được sắp xếp về miền Bắc, làm việc tại nhà máy bán dẫn Z181. Dù có chút lo lắng, nhưng chúng tôi cảm thấy đây là một vinh dự.

Cảm xúc của bà ra sao khi quyết định bỏ lại 18 năm ở Pháp để trở về Việt Nam?

– Khi được phân công về miền Bắc, tôi cảm thấy hoang mang. Chúng tôi lớn lên ở miền Nam và không có hình dung nào về cuộc sống ở miền Bắc. Tuy nhiên, chúng tôi đã chuẩn bị tâm lý cho những khó khăn phía trước.

Chúng tôi đã bán hết tài sản ở Pháp và chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho công việc. Bạn bè và đồng nghiệp cũng đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.

Ngược lại, mẹ tôi rất giận khi biết chúng tôi quyết định quay về. Bà đã cố gắng ngăn cản nhưng cuối cùng cũng không thể. Tôi đã nói với các con rằng nếu theo bố mẹ thì sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng các con đều đồng ý đi cùng.

Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

Cuộc sống của bà trong những ngày đầu về miền Bắc như thế nào?

– Thú thật, lúc đầu tôi cảm thấy rất hụt hẫng. Cuộc sống ở Pháp dù không dư dả nhưng vẫn tiện nghi, còn về Việt Nam, mọi thứ đều khó khăn. Chúng tôi phải sống trong một căn hộ tập thể chật chội và phải tự trồng rau để ăn.

Ban đầu, các con tôi còn có thịt ăn vì chúng tôi mang theo một rương thịt hộp. Nhưng khi hết thì chúng tôi cũng không thể mua được gì. Cuộc sống rất khó khăn, nhưng chúng tôi đã cố gắng thích nghi.

Nhà nước đã phân công chúng tôi vào ngành bán dẫn, và tôi đã ghi chép cẩn thận từng công đoạn sản xuất trước khi về nước. Sau ba năm, dự án hoàn tất và tôi đã xin chuyển vào Nam để gần gia đình.

Tại Sài Gòn, tôi bắt tay vào triển khai dự án sản xuất vòng tránh thai cho phụ nữ. Dự án này đã nhận được sự quan tâm từ Liên Hợp Quốc và họ đã tài trợ cho chúng tôi.

Tôi đã kết nối lại với những người trong mạng lưới kiều bào cũ và học hỏi từng bước để triển khai dự án. Tôi luôn tin rằng, nếu huy động được tri thức của hàng trăm chuyên gia kiều bào, tôi sẽ có thể thực hiện được nhiều điều lớn lao.

Tôi đã giữ cách làm này suốt 20 năm làm Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật chất dẻo, luôn tìm kiếm nguồn tài trợ và xây dựng đội ngũ giỏi để Trung tâm có thể tự vận hành.

Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

Tiến sĩ Lương Bạch Vân huấn luyện sinh viên Pháp thực tập tại Trung tâm kỹ thuật chất dẻo. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Bà cũng được biết đến với nhiều đóng góp xã hội, đặc biệt là dành 20 năm cho các hoạt động kết nối kiều bào. Vì sao bà chọn tiếp tục cống hiến ở lĩnh vực này?

– Năm 2001, tôi nghỉ hưu nhưng vẫn muốn cống hiến cho quê hương. Khi Nghị quyết 36 ra đời, tôi đã tham gia công tác kiều bào để thu hẹp khoảng cách giữa đất nước và cộng đồng kiều bào.

Tôi đã đề xuất thành lập ban liên lạc người Việt Nam ở nước ngoài tại 24 quận huyện để hỗ trợ kiều bào trong những ngày đầu về nước. Chúng tôi đã đặt ra ba mục tiêu chính: hỗ trợ kiều bào, kết nối họ với các trường đại học và doanh nghiệp, và hỗ trợ những người muốn đóng góp cho xã hội.

Ban đầu, công việc không đơn giản do có định kiến từ cả hai phía. Nhưng tôi đã kiên trì thuyết phục mọi người rằng tất cả đều là con dân đất Việt.

Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

Trong giai đoạn mới, Việt Nam rất cần nguồn lực và tri thức từ cộng đồng kiều bào. Sau 40 năm làm công tác vận động và kết nối, bà đúc rút được điều gì?

– Tôi nhận thấy rằng không chỉ những người trở về mới cống hiến, mà rất nhiều người ở lại nước ngoài vẫn có thể đóng góp hiệu quả. Cộng đồng kiều bào rất đa dạng và có thể đóng góp ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Chúng ta cần mở rộng mối quan hệ và tìm kiếm những người có chuyên môn phù hợp để mời họ đóng góp cho quê hương. Hiện nay, các đại sứ quán cũng đã có bộ phận chuyên trách kiều bào, nhưng cần cải thiện để nắm bắt thông tin và xây dựng mối quan hệ lâu dài.

Giờ đây, sau 50 năm, nhìn lại hành trình của mình, điều gì khiến bà day dứt, điều gì khiến bà thấy mãn nguyện?

– Kỷ niệm 50 năm thống nhất là dịp để tôi nhìn lại con đường mình đã đi. Tôi đã mang về nhiều dự án, nhưng vẫn còn nhiều điều chưa thực hiện được. Tôi thường nói với các bạn trẻ rằng hãy luôn tự hỏi mục đích học tập của mình là gì và đừng quên nguồn cội của mình.

Tôi hy vọng rằng thế hệ trẻ sẽ tiếp tục cống hiến cho quê hương và không ngừng phấn đấu để đạt được ước mơ của mình.

Hồi ức của nữ tiến sĩ trở về quê hương sau năm 1975

Nội dung: **Thùy Ngân – Diễm Hạnh
**Video: Bảo Quyên – **Hoàng Minh – Kỳ Anh
**Photo: **Thành Nguyễn
**Đồ họa: Hoàng Khánh

Lượt xem: 29

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *