Trong bối cảnh hiện nay, TP HCM đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc duy trì vị thế dẫn đầu của mình. Tỷ lệ đầu tư toàn xã hội của thành phố hiện chỉ đạt dưới 25% GRDP, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước. Điều này được xem là một trong những rào cản lớn cho sự phát triển bền vững của thành phố.
Nhận định này đã được đưa ra tại hội nghị lấy ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học và trí thức nhằm góp ý cho dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ TP HCM lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, diễn ra vào sáng ngày 13/8. Đây là kỳ đại hội đầu tiên của thành phố sau khi sáp nhập với các tỉnh lân cận như Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu.
Chủ tịch UBND TP HCM, ông Nguyễn Văn Được, đã nhấn mạnh rằng trong nhiệm kỳ tới, thành phố sẽ tiếp tục nỗ lực để giữ vai trò dẫn dắt và lan tỏa sự phát triển ra toàn quốc. Với mô hình “một không gian – ba khu vực – một đặc khu”, TP HCM đang hướng tới việc trở thành một siêu đô thị có tầm vóc quốc tế.
Các khu vực trong mô hình này bao gồm: khu đô thị lõi cũ của TP HCM, trung tâm tài chính và công nghệ cao; Bà Rịa – Vũng Tàu với vai trò là thủ phủ kinh tế biển và năng lượng sạch; và Bình Dương, nơi tập trung công nghiệp công nghệ cao. Đặc khu Côn Đảo được định hướng trở thành “thiên đường du lịch nghỉ dưỡng”.
Việc sáp nhập đã giúp TP HCM mở rộng diện tích lên gấp ba lần, đạt hơn 6.700 km2, với dân số khoảng 15 triệu người và GRDP tăng 1,5 lần. Tuy nhiên, để trở thành một điểm đến hấp dẫn toàn cầu, thành phố cần phải giải quyết những hạn chế cũ và đối mặt với những thách thức mới.
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành, giảng viên tại Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, đã chỉ ra rằng tỷ lệ đầu tư toàn xã hội trên GRDP của TP HCM chỉ khoảng 23% (bao gồm dầu khí) hoặc hơn 24% (không bao gồm dầu khí), thấp hơn mức trung bình của cả nước là 33-34%.
Ông nhấn mạnh rằng không có siêu đô thị nào có tỷ lệ đầu tư thấp như vậy. Tại các thành phố lớn trên thế giới, tỷ lệ tái đầu tư thường phải vượt qua mức trung bình của cả nước. Ông đề xuất nâng tỷ lệ này lên 35% để tạo động lực cho sự tăng trưởng.
Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng phần lớn nguồn thu của TP HCM hiện nay phải nộp về trung ương, trong khi nguồn để lại cho thành phố rất hạn chế. Điều này, cùng với khó khăn trong việc huy động vốn xã hội, đã khiến cho các nhà đầu tư chậm trễ trong việc giải ngân. Do đó, TP HCM cần có những cơ chế hiệu quả và sáng tạo để huy động mọi nguồn lực, bao gồm cả đầu tư công, tư nhân và đầu tư nước ngoài, nhằm phát triển hạ tầng.
TS Vũ Thành Tự Anh, thành viên Hội đồng tư vấn thực hiện Nghị quyết 98, cho rằng trước khi sáp nhập, TP HCM đã dần mất đi vị thế dẫn đầu, trong khi Bình Dương từng là hình mẫu nhưng hiện nay không còn tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ. Ông nhấn mạnh rằng thành phố mới cần phải lấy lại vị thế tiên phong trong bối cảnh mới.
Ông cũng chỉ ra rằng hạ tầng giao thông kết nối giữa các tỉnh chưa được thông suốt, dữ liệu và quản trị số chưa được đầu tư đúng mức, và nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu. Đặc biệt, cơ chế đãi ngộ và bảo vệ cán bộ dám nghĩ dám làm vẫn chưa rõ ràng.
GS.TS Trần Ngọc Anh từ Đại học Indiana (Mỹ) đã cảnh báo rằng xu hướng tự động hóa và trí tuệ nhân tạo có thể dẫn đến sự phân hóa thị trường lao động, chỉ giữ lại những công việc yêu cầu kỹ năng rất cao hoặc rất thấp, gây áp lực lên lực lượng lao động có kỹ năng trung bình.
Đối với Bình Dương, vùng công nghiệp chủ lực, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn tập trung vào khâu gia công và sản xuất. Ông đề xuất rằng cần định hướng phát triển công nghiệp công nghệ cao, biến vùng lõi của TP HCM cũ thành trung tâm tài chính và công nghệ, đồng thời đẩy mạnh đào tạo và tái đào tạo nguồn nhân lực.
TS Trần Du Lịch, người đã tham gia soạn thảo văn kiện Đại hội Đảng TP HCM qua nhiều nhiệm kỳ, cho rằng thành phố cần có phương án xử lý các dự án tồn đọng, chậm triển khai nhiều năm như chống ngập, khu đô thị Thủ Thiêm, Safari Củ Chi, Bình Quới – Thành Đa, cùng nhiều dự án tư nhân khác.
Ông cũng nhấn mạnh rằng việc cải tạo chung cư cũ, nhà ở kênh rạch, nhà ở xã hội và chỉnh trang đô thị cần được triển khai nhanh chóng thông qua hợp tác công – tư, ưu tiên nguồn lực xã hội hóa và cơ chế đặc thù để cải thiện đời sống của người dân.
TP HCM đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ trở thành một đô thị thông minh, hiện đại, dẫn đầu Đông Nam Á về kinh tế, tài chính, thương mại, giáo dục, y tế, khoa học – công nghệ. Đến năm 2045, thành phố sẽ trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học, văn hóa và du lịch hàng đầu châu Á, phát triển theo hướng xanh và đáng sống.
Thành phố đã đề ra 23 chỉ tiêu, trong đó có việc tăng trưởng GRDP bình quân 10% mỗi năm; đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt từ 14.000 đến 15.000 USD; tổng vốn đầu tư xã hội bình quân trong 5 năm đạt từ 35% đến 40% GRDP; và kinh tế số chiếm từ 30% đến 40% trong tổng cơ cấu kinh tế.
Lê Tuyết